Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

Sau Một Thập Kỷ, Các Nhà Đầu Tư Cuối Cùng Đã Trở Lại Điểm Hòa Vốn



Gần đây, tác giả bài viết này đã bàn về việc so sánh các lần thị trường điều chỉnh, trong đó vai trò của tác động tài chính được cho là chiếm 10-60% mỗi đợt. Nhưng điều gì xảy ra sau đó?

Trong quá trình tăng trưởng mạnh mẽ và thị trường con bò tót kéo dài như hiện nay, các nhà đầu tư trở nên quá tự mãn trước những rủi ro đầu tư tiềm ẩn. Sự tự mãn này được thể hiện qua sự tái xuất của các danh mục đầu tư “couch potato” (lười vận động), “mua-và-năm-giữ” và “chỉ số thụ động”. Những ý tưởng đầu tư này đem lại trái ngọt khi thị trường không ngừng đi lên. Nhưng rồi khi tình thế đảo ngược – một điều tất yếu sẽ xảy đến, chúng sẽ đi ngang rất nhanh.
Mặc dù hiện nay, thị trường tin rằng giảm sâu như vậy là điều không có khả năng xảy ra do sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương, nhưng thị trường đã hai lần bốc hơi 50% giá trị như vậy kể từ đầu thế kỷ này. Nguyên nhân thì có muôn hình vạn trạng, nhưng kết quả thì luôn có chung dáng hình. Lần sụt giảm nghiêm trọng tới đây của thị trường sẽ đến từ các khoản nợ khổng lồ của doanh nghiệp, lương hưu không được chính phủ tài trợ và sự bốc hơi của các kế hoạch mua lại cổ phiếu – vốn chiếm gần 100% lượng mua ròng kể từ năm 2018.
Suy thoái thị trường là một hằng số đối với thị trường tài chính. Cho dù suy thoái là nhỏ hay lớn, tác động của nó đến các nhà đầu tư không chỉ thể hiện ở sự giảm giá. Đây là một trong những hậu quả quan trọng nhất của những lần thị trường điều chỉnh bởi nó liên quan đến các mục tiêu đầu tư dài hạn, tuy nhiên nó thường bị bỏ qua.
Có một loạt bài báo ca ngợi sự lên hương của S&P 500 trong giai đoạn thị trường con bò tót so với mức đáy năm 2009, và nhận định rằng nếu các nhà đầu tư chỉ cần giữ các danh mục đầu tư trong thời kỳ suy thoái năm 2008, hay tốt hơn là mua vào với mức đáy hồi tháng 3/2009, họ có lẽ sẽ trúng đậm.
Thật không may, phần lớn các nhà đầu tư nháo nhào bán tháo khi cuộc khủng hoảng tài chính chuẩn bị kết thúc và mãi cho tới nhiều năm sau đó mới dám đầu tư lại. Không có gì lạ khi thấy những cá nhân hoàn toàn rời khỏi thị trường, ngay cả sau khi thị trường đã tăng trở lại cả thập kỷ.
Đây chính là đòn tâm lý nặng nề mà thị trường con gấu tàn khốc để lại đối với các nhà đầu tư.
Các thị trường con gấu khiến cho các nhà đầu tư mắc phải những sai lầm nghiêm trọng:
  1. Họ đã trả mức giá giá cao cho các công ty mà họ đang đầu tư vào ở thị trường con bò tót. Họ phải trả giá khi lợi nhuận mà họ thu được trong tương lai thấp hơn vì khi đó việc “mua giá cao” chắc chắn sẽ biến thành “bán giá thấp”.
  2. Các nhà đầu tư hoảng loạn khi giá trị thị trường sụt giảm. Khi thị trường lên như diều gặp gió, dễ quên rằng số tiền chúng ta đầu tư là “tiền tiết kiệm” mà gia đình chúng ta phải dựa vào trong tương lai. Nhiều nhà đầu tư tự nhận mình người theo đuổi chiến lược “mua và nắm giữ” đã phải thay đổi suy nghĩ sau khi nếm trải những khoản thua lỗ lớn. Các nhà đầu tư sẵn sàng “thoát khỏi với bất cứ giá nào” thường bỏ qua biến động. Biến động không phải lúc nào cũng xấu, nhưng biến động tăng lên cùng với sự sụt giảm lớn về giá trị, cuối cùng sẽ khiến các nhà đầu tư “sợ hãi và hoảng loạn”.
  3. Bỏ qua phân tích thị trường. Khi thị trường cứ đi lên không ngừng, các nhà đầu tư bắt đầu “hợp lý hóa” các lý do mà họ trả quá cao cho giá trị trên thị trường. Họ tìm kiếm những thiên kiến để khẳng định quan điểm của mình, họ có xu hướng bỏ qua bất kỳ phân tích thị trường nào làm lung lay niềm hy vọng giá lên của họ. Cụm từ “lần này sẽ khác” là một dấu hiệu đặc trưng cho tâm lý này.
“Lý thuyết đầu tư mua và nắm giữ phủ nhận rằng cổ phiếu đắt hay rẻ, nó luôn khuyến khích các nhà đầu tư mua cổ phiếu, bất kể đặc điểm giá trị của thị trường chứng khoán có ra sao.” – Ken Solow
Rốt cục, vấn đề chính với chiến lược mua và nắm giữ đầu tư là ở BẠN!

Vấn đề lương hưu

Khi thị trường con bò tót vẫn đang sung mãn, các nhà đầu tư cá nhân làm hai việc khiến họ gặp áp lực tài chính.
  1. Bắt đầu đối xử với thị trường như một sòng bạc với hy vọng “phất lên nhanh chóng”, và
  2. Giảm bớt các khoản đóng góp của họ với kỳ vọng rằng lợi nhuận cao sẽ giúp lấp đầy khoảng trống.
Thật không may, các quỹ hưu trí trên khắp nước Mỹ hiện nay cũng gặp phải vấn đề này. Các nhà quản lý lương hưu đã đưa ra những giả định hoàn trả không thực tế trong 30 năm qua – và điều này đang biến thành rắc rối. “Lương hưu được các chuyên gia tính toán dựa trên những giả định liên quan đến nhân khẩu học ở hiện tại và tương lai, tuổi thọ, lợi tức đầu tư, mức đóng góp hoặc thuế suất, và các khoản thanh toán cho người thụ hưởng, cùng với các biến số khác. Sau hai giai đoạn thị trường con gấu nghiêm trọng và lợi nhuận hàng năm dưới chuẩn kể từ đầu thế kỷ, vấn đề lớn nhất nằm ở tỷ lệ hoàn vốn đầu tư dự kiến. Dựa trên các giả định sai lầm là nguyên nhân cốt lõi gây ra tình trạng không thể đáp ứng các nghĩa vụ trong tương lai. Khi ước tính lợi nhuận quá cao, giá trị lương hưu trong tương lai bị thổi phồng một cách thái quá, hệ quả là số tiền đóng góp cần thiết của các cá nhân và chính phủ vào hệ thống lương hưu giảm xuống. Lương hưu VẪN gắn với giả định hoàn vốn đầu tư hàng năm trong khoảng 7-8% ngay cả sau nhiều năm hoạt động kém hiệu quả.
Tuy nhiên, tại sao các quỹ hưu trí vẫn tiếp tục có giả định lợi tức đầu tư cao mặc dù nhiều năm hoạt động kém hiệu quả? Để giảm yêu cầu đóng góp (tiết kiệm) của các thành viên của họ – đây chỉ là một lý do. Vấn đề này tương tự vấn đề mà một người Mỹ trung lưu gặp phải khi dự kiến thu về lợi nhuận trung bình hàng năm 6-8% khi thực hiện chiến lược đầu tư của họ. Tại sao bạn nên tiết kiệm tiền nếu thị trường có thể làm việc cho bạn, phải không? Đây là một chủ đề phổ biến trong nhiều lời khuyên trên các phương tiện truyền thông chính thống.
“Suze Orman giải thích rằng nếu một người 25 tuổi gửi 100 USD vào một quỹ Roth IR mỗi tháng, người đó có thể có 1 triệu USD khi nghỉ hưu.”
Vấn đề với phát biểu này của bà Orman là ở chỗ để có được 1 triệu USD khi nghỉ hưu, người này phải đạt lợi nhuận hàng năm 11,25% (điều chỉnh theo lạm phát) mỗi năm trong 40 năm tiếp theo. Điều đó không thực tế cho lắm. Tiết kiệm dưới mức là một trong những vấn đề cơ bản khiến các nhà đầu tư không đạt được các mục tiêu tài chính của mình khi nghỉ hưu. Một vấn đề khác, như đã lưu ý ở trên, là phần quan trọng nhất trong phân tích bị những người ủng hộ trường phái “mua và nắm giữ” bỏ qua.

Quay trở lại điểm hòa vốn, thậm chí còn chưa được đến điểm hòa vốn

Dưới đây là một lời khuyên phổ biến.
“Nếu bạn đầu tư 100.000 USD vào thị trường khi nó đạt đỉnh vào năm 2000 hoặc năm 2007, danh mục đầu tư của bạn sẽ quay trở lại điểm hòa vốn trong năm 2013. Kể từ đó, danh mục đầu tư của bạn sẽ tăng lên hơn 200.000 USD.”
Dưới đây là biểu đồ tương đối chứng minh tuyên bố trên là chính xác. (Tổng lợi nhuận thực, được điều chỉnh theo lạm phát của khoản đầu tư 100.000 USD.)

Không ai nói nhiều về các nhà đầu tư đã có mặt trên thị trường kể từ đầu thế kỷ, nhưng đó là một trong những vấn đề khiến cho nhiều người Mỹ không được chính phủ tài trợ tiền hưu trí. Trong khi Phố Wall tuyên bố thị trường mang lại lợi nhuận hàng năm từ 6% trở lên, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận hàng năm kể từ năm 2000, trên cơ sở tổng lợi nhuận được điều chỉnh theo lạm phát, chỉ ở mức 4%.
Tuy nhiên, do hầu hết các phân tích được đưa ra để hỗ trợ cho quan điểm “mua và nắm giữ” bắt đầu phân tích từ thời điểm thị trường đạt đỉnh trong năm 2007, lợi nhuận trung bình thực ra chỉ đtạ 6,64%.
Đây là vấn đề.
Trong khi danh mục đầu tư của bạn đã trở lại điểm hòa vốn, trên cơ sở tổng lợi nhuận, 6 hoặc 13 năm sau khi bạn đầu tư lần đầu, tùy thuộc vào ngày bắt đầu của bạn, bạn KHÔNG trở lại điểm hòa vốn.
Bạn còn nhớ kế hoạch đầu tư của mình chứ? Vâng, kế hoạch đó được các phương tiện truyền thông chính thống “tâng bốc” với mức lợi nhuận giả định hàng năm là 6%?
Biểu đồ dưới đây cho thấy giá trị của khoản đầu tư 100.000 USD với lợi nhuận 6% hàng năm từ năm 2000 hoặc 2007.

Có vấn đề gì đó với biểu đồ này.
Một nhà đầu tư đã tăng gấp ba số tiền của họ từ năm 2000 và tăng gấp đôi từ năm 2007.
Thật không may, bạn không may mắn như thế.
Hãy thử chồng hai biểu đồ trên xem sao.
Nếu kế hoạch tài chính của bạn dựa trên lãi suất tiết kiệm giảm xuống và và tỷ lệ lợi nhuận cao, bạn sẽ không đạt được mục tiêu hưu trí nếu bạn bắt đầu vào năm 2000. May mắn thay, đối với các nhà đầu tư bắt đầu vào năm 2007, xin chúc mừng, giờ bạn đã quay trở lại điểm hòa vốn.

Thật không may, có rất ít nhà đầu tư thực sự nhìn thấy lợi nhuận thị trường trong 12 năm qua. Như đã lưu ý, phần lớn các nhà đầu tư bỏ toàn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán vào năm 2007 đã rời khỏi thị trường vào cuối năm 2008. Sau khi bị bầm dập như vậy, phải mất nhiều năm họ mới dám quay trở lại thị trường. Lợi nhuận của họ rất khác so với những gì truyền thông chính thống tuyên bố.
Mặc dù chiến lược đầu tư “mua và nắm giữ” đem lại siêu lợi nhuận khi thị trường đi lên, nhưng nó có thể khiến các nhà đầu tư trầy da tróc vẩy khi thị trường lao dốc. Khi số vốn của họ bị rút cạn, họ có xu hướng đưa ra những sai lầm đầu tư nghiêm trọng khiến cho khả năng họ được các mục tiêu tài chính dài hạn bị ảnh hưởng đáng kể.
Bạn có thể nghĩ rằng bạn có đủ can đảm để lèo lái và chống đỡ, nhưng có lẽ bạn chẳng thể làm gì.
Nhưng ngay cả khi bạn có thể làm được gì đó, quay trở lại điểm xuất phát không phải là một chiến lược đầu tư để đạt được mục tiêu hưu trí của bạn.
Đối với nhiều nhà đầu tư đã đạt được mục tiêu tài chính của mình, có lẽ họ nên nhìn lại những gì đã xảy ra trong năm 2000 và 2007. Thị trường con bò tót hiện nay đã kéo dài quá lâu, mức định giá tăng cao và người ta ngày càng tin rằng “lần này sẽ khác”.
Phân tích rủi ro mà bạn đang phải đối mặt và những hậu quả mà bạn có thể phải gánh chịu trong tương lai là một việc nên làm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét